Jura (Kỷ - Hệ)
Jura là hệ thứ hai trong số ba hệ của Mesozoi, do nhà địa chất người Pháp Alexandre Brongniart xác lập và đặt tên (1829) theo dãy núi Jura nằm ở ranh giới giữa Pháp và Thụy Sĩ, nơi phân bố rộng rãi đá vôi của hệ này. Tiếp sau đó, nhà tự nhiên học Pháp Alcide d'Orbigny (1802-1857) đã lần đầu tiê...
Saved in:
Main Author: | |
---|---|
Format: | Article |
Language: | other |
Published: |
H. : ĐHQGHN
2017
|
Subjects: | |
Online Access: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/18038 |
Tags: |
Add Tag
No Tags, Be the first to tag this record!
|
Institution: | Vietnam National University, Hanoi |
Language: | other |
id |
oai:112.137.131.14:VNU_123-18038 |
---|---|
record_format |
dspace |
spelling |
oai:112.137.131.14:VNU_123-180382017-04-12T09:31:36Z Jura (Kỷ - Hệ) Tống, Duy Thanh Sinh giới trong Jura Sự biến đổi của bộ mặt Trái Đất Điều kiện khí hậu trong Jura Trầm tích Jura ở Đông Nam Á và Việt Nam Jura là hệ thứ hai trong số ba hệ của Mesozoi, do nhà địa chất người Pháp Alexandre Brongniart xác lập và đặt tên (1829) theo dãy núi Jura nằm ở ranh giới giữa Pháp và Thụy Sĩ, nơi phân bố rộng rãi đá vôi của hệ này. Tiếp sau đó, nhà tự nhiên học Pháp Alcide d'Orbigny (1802-1857) đã lần đầu tiên phân chia hệ này thành các tầng. Mỗi tầng do ông phân định đều được đặc trưng bằng một phức hệ hóa thạch mà theo quan điểm của thuyết biến họa (G. Cuvier – 1769-1832) thì toàn bộ giới sinh vật đã bị tiêu diệt ở ranh giới thời gian thành tạo mỗi tầng, sau đó sang thời gian kế tiếp sinh giới lại được tái tạo mới. Tuy quan điểm của thuyết biến họa không đúng với bản chất khoa học của sự kiện nhưng do việc phân chia mỗi tầng dựa trên các phức hệ hóa thạch đã phản ánh đúng nội dung của sinh địa tầng học nên ngày nay nhiều tầng do d'Orbigny mô tả vẫn được sử dụng như là các bậc của hệ Jura. Ba thống của hệ Jura còn có tên gọi là Lias, Dogger và Malm [Bảng 1]. Jura cũng được gọi là kỷ nguyên của Khủng long do sự phát triển cực thịnh của những Bò sát kỳ dị này. Sinh giới Jura mang đặc tính Mesozoi (Trung sinh) rõ nét; trong động vật Không xương sống – lớp Chân đầu (Cúc đá và Tên đá) phát triển cực thịnh, còn trong động vật Có xương sống – Bò sát ngự trị cả trên lục địa và dưới biển. Do từ cuối Permi thực vật đã mang tính chất trung sinh nên đến Trias rồi sang Jura thực vật đều mang tính chất điển hình của giới thực vật trung sinh (Mesophyta). Trong Jura quá trình tan vỡ Pangea diễn ra mạnh mẽ, vịnh Mexico tiếp tục mở rộng do các mảng mà hiện nay nằm ở vị trí nam Mexico và Trung Mỹ chuyển động về phía nam. Hoạt động tách dãn phá vỡ siêu lục địa Gondwana cũng diễn ra nhanh chóng. Cuối Jura, Đại Tây Dương kiểu mới được mở ra và biển Tethys đóng lại. Sự phổ biến của khí hậu ấm và ẩm ở nhiều khu vực đã tạo điều kiện cho sự phát triển phong phú thực vật làm nguyên liệu cho sự hình thành những mỏ than lớn bậc nhất trên thế giới. 2017-03-15T02:40:38Z 2017-03-15T02:40:38Z 2017 Article 8 tr. http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/18038 other application/pdf H. : ĐHQGHN |
institution |
Vietnam National University, Hanoi |
building |
VNU Library & Information Center |
country |
Vietnam |
collection |
VNU Digital Repository |
language |
other |
topic |
Sinh giới trong Jura Sự biến đổi của bộ mặt Trái Đất Điều kiện khí hậu trong Jura Trầm tích Jura ở Đông Nam Á và Việt Nam |
spellingShingle |
Sinh giới trong Jura Sự biến đổi của bộ mặt Trái Đất Điều kiện khí hậu trong Jura Trầm tích Jura ở Đông Nam Á và Việt Nam Tống, Duy Thanh Jura (Kỷ - Hệ) |
description |
Jura là hệ thứ hai trong số ba hệ của Mesozoi, do nhà địa chất người Pháp Alexandre Brongniart xác lập và đặt tên (1829) theo dãy núi Jura nằm ở ranh giới giữa Pháp và Thụy Sĩ, nơi phân bố rộng rãi đá vôi của hệ này. Tiếp sau đó, nhà tự nhiên học Pháp Alcide d'Orbigny (1802-1857) đã lần đầu tiên phân chia hệ này thành các tầng. Mỗi tầng do ông phân định đều được đặc trưng bằng một phức hệ hóa thạch mà theo quan điểm của thuyết biến họa (G. Cuvier – 1769-1832) thì toàn bộ giới sinh vật đã bị tiêu diệt ở ranh giới thời gian thành tạo mỗi tầng, sau đó sang thời gian kế tiếp sinh giới lại được tái tạo mới. Tuy quan điểm của thuyết biến họa không đúng với bản chất khoa học của sự kiện nhưng do việc phân chia mỗi tầng dựa trên các phức hệ hóa thạch đã phản ánh đúng nội dung của sinh địa tầng học nên ngày nay nhiều tầng do d'Orbigny mô tả vẫn được sử dụng như là các bậc của hệ Jura. Ba thống của hệ Jura còn có tên gọi là Lias, Dogger và Malm [Bảng 1]. Jura cũng được gọi là kỷ nguyên của Khủng long do sự phát triển cực thịnh của những Bò sát kỳ dị này. Sinh giới Jura mang đặc tính Mesozoi (Trung sinh) rõ nét; trong động vật Không xương sống – lớp Chân đầu (Cúc đá và Tên đá) phát triển cực thịnh, còn trong động vật Có xương sống – Bò sát ngự trị cả trên lục địa và dưới biển. Do từ cuối Permi thực vật đã mang tính chất trung sinh nên đến Trias rồi sang Jura thực vật đều mang tính chất điển hình của giới thực vật trung sinh (Mesophyta). Trong Jura quá trình tan vỡ Pangea diễn ra mạnh mẽ, vịnh Mexico tiếp tục mở rộng do các mảng mà hiện nay nằm ở vị trí nam Mexico và Trung Mỹ chuyển động về phía nam. Hoạt động tách dãn phá vỡ siêu lục địa Gondwana cũng diễn ra nhanh chóng. Cuối Jura, Đại Tây Dương kiểu mới được mở ra và biển Tethys đóng lại. Sự phổ biến của khí hậu ấm và ẩm ở nhiều khu vực đã tạo điều kiện cho sự phát triển phong phú thực vật làm nguyên liệu cho sự hình thành những mỏ than lớn bậc nhất trên thế giới. |
format |
Article |
author |
Tống, Duy Thanh |
author_facet |
Tống, Duy Thanh |
author_sort |
Tống, Duy Thanh |
title |
Jura (Kỷ - Hệ) |
title_short |
Jura (Kỷ - Hệ) |
title_full |
Jura (Kỷ - Hệ) |
title_fullStr |
Jura (Kỷ - Hệ) |
title_full_unstemmed |
Jura (Kỷ - Hệ) |
title_sort |
jura (kỷ - hệ) |
publisher |
H. : ĐHQGHN |
publishDate |
2017 |
url |
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/18038 |
_version_ |
1680964266004316160 |