Mặt san bằng
Sự thành tạo các mặt san bằng (MSB) cũng giống như sự thành tạo các lớp trầm tích, là hiện tượng toàn cầu và phân bố rộng rãi ở trên khắp các châu lục và đới bờ biển. Vấn đề thành tạo các MSB là một trong những vấn đề quan trọng nhất của địa mạo lý thuyết và địa mạo khu vực, cũng là vấn đề gây tran...
Saved in:
Main Author: | |
---|---|
Format: | Article |
Language: | Vietnamese |
Published: |
Đại học Quốc gia Hà Nội
2017
|
Subjects: | |
Online Access: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/18508 |
Tags: |
Add Tag
No Tags, Be the first to tag this record!
|
Institution: | Vietnam National University, Hanoi |
Language: | Vietnamese |
Summary: | Sự thành tạo các mặt san bằng (MSB) cũng giống như sự thành tạo các lớp trầm tích, là hiện tượng toàn cầu và phân bố rộng rãi ở trên khắp các châu lục và đới bờ biển. Vấn đề thành tạo các MSB là một trong những vấn đề quan trọng nhất của địa mạo lý thuyết và địa mạo khu vực, cũng là vấn đề gây tranh luận nhiều nhất trong Địa mạo học, đồng thời cũng là hướng nghiên cứu có nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Những luận thuyết về MSB được hình thành từ cuối thế kỷ XIX, góp phần quan trọng vào sự xác lập Địa mạo học như là một khoa học độc lập, nằm giữa Địa lý học và Địa chất học, với những khái niệm chính nêu dưới đây.
Mặt san bằng (planation surface): được hiểu là “tất cả các bề mặt bằng phẳng sinh thành do san phẳng các địa hình phân cắt trước đó dưới tác động của các quá trình bóc mòn và tích tụ, trong điều kiện chúng thắng thế các chuyển động kiến tạo”; hoặc có thể hiểu đơn giản: “tất cả các bề mặt địa hình gần bằng phẳng phân bố rộng đều được gọi là mặt san bằng”. MSB còn được hiểu là những bề mặt nguồn gốc khác nhau, sinh thành trong điều kiện bù trừ lâu dài và đầy đủ các quá trình nội sinh bằng các quá trình ngoại sinh, và theo hình dạng chúng (MSB) gần với mực bề mặt trường trọng lực của Trái Đất. MSB bao gồm cả phần bóc mòn lục địa và cả phần mài mòn và tích tụ ở đới bờ.
Pedimen (pediment, tiền sơn nguyên, đồng bằng đá gốc trước núi): là “đồng bằng bóc mòn nghiêng thoải cắt vào đá gốc và có vật liệu vụn phủ trên, hình thành do quá trình rửa trôi bề mặt và dòng chảy khe rãnh dưới chân các sườn dốc giật lùi song song”, hoặc “pedimen là một sườn nghiêng thoải xâm thực và chuyển tải vật liệu, cắt vào đá gốc và nối vách sườn xâm thực bên trên với bề mặt tích tụ phía dưới”.
Pediplen (pediplain, đồng bằng chân núi): là “bề mặt bóc mòn bằng phẳng nghiêng thoải, thành tạo ở giai đoạn kết thúc của quá trình pediplen hóa do nối nhập các pedimen với nhau”.
Peneplen (peneplain, bán bình nguyên): là “một đồng bằng bóc mòn hơi lượn sóng cắt vào tầng đá biến vị theo mực xâm thực chung, sinh thành do phá hủy vùng núi, là hệ quả của giai đoạn chuyển tiếp từ tạo núi sang giai đoạn nền”; khái niệm này là của W. M. Davis đưa ra vào cuối thế kỷ XIX và được coi là thuộc giai đoạn già nua của chu kỳ xâm thực do ông đề xuất. Cũng có thể hiểu “peneplen là một bề mặt địa hình thấp bị bóc mòn xuống đến gần mực nước biển trong một thời gian kéo dài”. Nhìn chung, các nhà địa mạo thường quan niệm peneplen là dạng địa hình biểu thị kết thúc một giai đoạn phát triển của bề mặt Trái Đất kéo dài hàng chục triệu năm, biến một miền núi uốn nếp thành miền đồng bằng bóc mòn |
---|