Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động khai thác than tại mỏ Mông Dương đến chất lượng nước sông Mông Dương và đề xuất giải pháp giảm thiểu

Nguồn nước thải phát sinh của khu Trung tâm mỏ than Mông Dương gồm ba loại: nước thải sản xuất trong quá trình khai thác, nước thải sinh hoạt của cán bộ công nhân viên và nước mưa chảy tràn. Nhìn chung, giá trị hàm lượng một số chỉ tiêu đặc trưng của ngành khai thác than(Cu, Mn, Fe) trong nước thải...

Full description

Saved in:
Bibliographic Details
Main Author: Nguyễn, Thị Thúy
Other Authors: Đồng, Kim Loan
Format: Theses and Dissertations
Language:Vietnamese
Published: H. : Trường Đại học Khoa học tự nhiên 2018
Subjects:
Online Access:http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/62502
Tags: Add Tag
No Tags, Be the first to tag this record!
Institution: Vietnam National University, Hanoi
Language: Vietnamese
Description
Summary:Nguồn nước thải phát sinh của khu Trung tâm mỏ than Mông Dương gồm ba loại: nước thải sản xuất trong quá trình khai thác, nước thải sinh hoạt của cán bộ công nhân viên và nước mưa chảy tràn. Nhìn chung, giá trị hàm lượng một số chỉ tiêu đặc trưng của ngành khai thác than(Cu, Mn, Fe) trong nước thải sản xuất và nước mưa chảy tràn được thu gom trong các hố lắng tương đối cao tuy nhiên vẫn nằm dưới ngưỡng cho phép. Nước thải sinh hoạt từ khu văn phòng và nhà ăn mang đặc trưng của nước thải sinh hoạt nói chung, hàm lượng một số thành phần dinh dưỡng (amoni, BOD) tương đối cao. Suối H10 và đoạn sông Mông Dương khu vực gần mỏ than vào thời điểm lấy mẫu có dấu hiệu bị ô nhiễm các chất dinh dưỡng (BOD5, amoni) và các nguyên tố kim loại (Mn, Cu). Hàm lượng amoni tại vị trí hạ lưu suối H10 trước khi đổ ra sông Mông Dương (MD4) và vị trí suối H10 phía dưới khu nhà sàng Trung tâm (MD5) có hàm lượng cao hơn hẳn so với các vị trí khác, vượt giới hạn cho phép lần lượt là 2,6 và 3,13 lần (đợt 1). Hàm lượng đồng (Cu) dao động từ 0,58 – 1,45 mg/L (đợt 1) và 1,25 – 19,93 mg/L (đợt 2), nhiều vị trí vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,3 – 2 lần. Hàm lượng các nguyên tố kim loại nặng độc hại như chì, cadimi, thủy ngân, asen không đáng kể. Đánh giá chất lượng nước bằng chỉ số chất lượng nước WQI thì thấy chất lượng nước suối H10 tại các điểm lấy mẫu có xu hướng kém hơn chất lượng nước sông Mông Dương. Nhìn chung chất lượng nước sông Mông Dương chỉ phù hợp cho mục đích giao thông thủy, nếu dùng cho mục đích tưới tiêu thủy lợi hoặc các mục đích sử dụng khác có yêu cầu chất lượng nước thấp hơn thì chỉ đạt chất lượng trung bình đến xấu. Nước mưa rửa trôi đất đá, bụi than ra sông suối, lâu ngày không được nạo vét làm bồi lấp lòng sông, lòng suối quanh khu vực mỏ; hạn chế khả năng tiêu thoát nước.