Phân tích độc tính trên thận liên quan tenofovir trên bệnh nhân sừ dụng arv tại phòng khám ngoại trú, Bệnh viện Bạch Mai
Đặt vẩn đề: Tenofovir (TDF) chính thức nằm trong phác đồ ưu tiên điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS theo quyết định của Bộ Y tế từ năm 2011. Một số tác dụng phụ của TDF đã được ghi nhận trong đó nồi bật nhất là độc tinh trên thận. Tuy nhiên các nghiên cứu về độc tính trên thận liên quan tới TDF trên...
Saved in:
Main Authors: | , , , , |
---|---|
Other Authors: | |
Format: | Conference or Workshop Item |
Language: | Vietnamese |
Published: |
2020
|
Subjects: | |
Online Access: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/99341 |
Tags: |
Add Tag
No Tags, Be the first to tag this record!
|
Institution: | Vietnam National University, Hanoi |
Language: | Vietnamese |
Summary: | Đặt vẩn đề: Tenofovir (TDF) chính thức nằm trong phác đồ ưu tiên điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS theo
quyết định của Bộ Y tế từ năm 2011. Một số tác dụng phụ của TDF đã được ghi nhận trong đó nồi bật nhất là độc
tinh trên thận. Tuy nhiên các nghiên cứu về độc tính trên thận liên quan tới TDF trên quần thề bệnh nhân nhiễm
HIV/AIDS tại Việt Nam còn khá hạn chế.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá tần suất xuất hiện độc tính và các yếu tổ liên quan tới nguy cơ gặp
độc tính trên thận liên quan tới TDF ờ những bệnh nhân đang theo dõi điều trị thuốc ARV tại Phòng khám ngoại
trú, Bệnh viện Bạch Mai.
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Phương pháp hồi cứu có kết hợp theo dõi dọc, dựa trên các thông tin
có trong bệnh án ngoại trú. Độc tính trên thận được xác định khi giá trị múc lọc cầu thận được tính toán dựa trên
nồng độ creatinin huyết thanh của bệnh nhân theo công thức Cockroft-Gauit tại lần tái khám giảm trên 25% so
mức ban đầu. Câc yếu tố khác của bệnh nhân được đưa vào phân tích nhằm tìm hiểu các yếu tố liên quan tới tần
suất xuất hiện biển cố độc tính trên thận.
Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân xuất hiện độc tính trên thận là 20,4%. Cắc yếu tố có thể liên quan tới nguy cơ xuất
hiện độc tính gồm: chỉ số khối cơ thể (BMI), mức lọc cầu thận ban đầu, lượng hemoglobin huyết thanh trước khi
bắt đầu điều trị và tuổi cùa bệnh nhân.
Kết luận: Tỷ lệ xuất hiện độc tính trên thận của bệnh nhân liên quan tới sử dụng TDF tương đối cao, tuy nhiên
hầu hết các biến cố ở mức nhẹ hoặc trung bình. Các yếu tổ liên quan tới nguy cơ xuất hiện độc tính đã được xác định, do đó các biện pháp theo dõi giám sát trên những bệnh nhân có nguy cơ cao là cần thiết. |
---|