Lượng từ trong văn bản thư từ thế kỷ XVII-XIX của người công giáo
Khi bàn vể số lượng (nhiều/ít) hay tính toàn thề của danh từ trung tâm, các nhà nghiên cứu đểu thống nhất cho rằng lượng từ chi toàn thể và lượng từ chỉ số lượng có vị trí thuộc vế phần phụ trước trong cấu trúc danh ngữ tiếng Việt. VỊ trí này là hoàn toàn hợp lí bởi theo Phan Ngọc: “cách bố trí các...
Saved in:
Main Author: | |
---|---|
Other Authors: | |
Format: | Conference or Workshop Item |
Language: | Vietnamese |
Published: |
Đại học KHXH&NV
2019
|
Subjects: | |
Online Access: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/68339 |
Tags: |
Add Tag
No Tags, Be the first to tag this record!
|
Institution: | Vietnam National University, Hanoi |
Language: | Vietnamese |
Summary: | Khi bàn vể số lượng (nhiều/ít) hay tính toàn thề của danh từ trung tâm, các nhà nghiên cứu đểu thống nhất cho rằng lượng từ chi toàn thể và lượng từ chỉ số lượng có vị trí thuộc vế phần phụ trước trong cấu trúc danh ngữ tiếng Việt. VỊ trí này là hoàn toàn hợp lí bởi theo Phan Ngọc: “cách bố trí các từ trong m ột ngữ Việt N am là theo ngữ nghĩa, từ nào có nội dung khái quát hơn từ ấy đứng trước” [phan Ngọc, 2011: 304]. Thật vậy, trong danh ngữ tiếng Việt, những từ chỉ nghĩa toàn thê’ như: cả, tất, tất cả, hết thảy... đểu biểu thị tính toàn thể của đối tượng hay tập hợp và là những từ “bao quát nhất vé nghĩa” [Phan Ngọc, 2011: 304]. Trong khi đó, các lượng từ chi số lượng trong danh ngữ tiếng Việt có m ột điểm chung, biểu thị số lượng của danh từ trung tầm. Vị trí này của danh ngữ thường được biểu đạt bằng nhóm các thực từ và hư từ, gồm: các từ chi số đếm (hai, mười, m ột trăm, ba ngàn,...), các từ chi số ước lượng (vài, dăm, vài ba, mươi, mươi lăm, ...), các từ với ý nghĩa phân phối (mọi, mỗi; từng), các hư từ chi số (những, các, một). Vị trí của lượng từ chỉ toàn thể (vị trí ngoài cùng của cấu trúc danh ngữ- vị trí 3) và lượng từ chỉ số lượng (vị trí kế tiếp của lượng từ chỉ toàn thể- vị trí 2) trong danh ngữ tiếng Việt có thê’ coi như được ổn định kể từ khi Nguyễn Tài Cẩn ( 1975) mô hình hóa cấu trúc danh ngữ tiếng Việt [Nguyễn Tài Cẩn, 1975: 27]. Các tác giả sau đó như: Nguyễn Đình H òa ( 1977), Đ inh Văn Đức (1985); Lê Biên ( 1999), Diệp Q uang Ban (2009), N guyễn Văn Chính ( 2010), H oàng Dũng- N guyẻn Thị Ly Kha ( 2003) ... |
---|